menu

Monday, November 2, 2015

LẠC BƯỚC HƯ VÔ

Bài Xướng
Trần Nhất Lang


Xách kiếm ra đi chẳng đợi chờ
Đỉnh Hoa còn lại bóng trăng mơ
Rót tràn thế sự đôi bầu rượu
Nhốt chặt giang hồ một túi thơ
Mượn sóng Ngũ Hồ tìm Phạm Lãi
Xuôi giòng Xích Bích kiếm ông Tô
Chuyện đời gác bỏ, chân cao thấp
Chén nguyệt ngâm nga với cuộc cờ.





Mùa xuân trên đỉnh yên bình

Bài họa
Tiểu Vũ Vi



Run rẫy đàn ai lạc phím chờ
Núi Hoa trăng rũ ánh vàng mơ
Thong dong vườn quế say hương nguyệt
Dạo bước thềm lan luyến dáng thơ
Ngõ hạnh đâm chồi xanh sắc điểm
Rừng mai trẩy lộc biếc màu tô
Du sơn ngoạn thủy tâm thần tịnh
Giữa cõi chân như bạn với cờ

ĐƯA EM KHÓI NƯỚC NGŨ HỒ

(Tặng anh Đào Hùng và Cát Thuỳ Hạc Quán nhân nghe bài Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng)


Bài Xướng

Trần Nhất Lang


Có gã từ quan lánh cuộc đời
Ngũ Hồ khói nước, một thuyền trôi
Đầy khoang thi tửu chèo lan nhịp
Nửa mái yên hà ánh nguyệt rơi
Vớt cánh rong vàng men bến đá
Theo chân bướm trắng lượn ven đồi
Yêu em như thuở còn hong lụa
Mây nước sông Vân thắm tóc người.






Bài Họa


Trên Sông Thu


Tiểu Vũ Vi


Từ ngày xa cách biệt duyên người
Một chiếc thuyền nan đủng đỉnh trôi
Sóng gợn nước nhô lòn kẽ đá
Mây vờn khói tỏa vắt lưng đồi
Thả hồn thi tứ tương giao mộng
Gác giấc phù sinh cảm ngộ đời
Thoang thoảng đâu đây hò giặt lụa
Bên dòng thủy nguyệt khúc buồn rơi

CHIM HỒNG ĐỢI GIÓ XUÂN

Bài Xướng

Trần Nhất Lang


Ai khiến chim hồng đậu nhánh xuân
Cô đơn một bóng đứng bên sân
Gió gieo khóm trúc cành xơ xác
Mưa gội rừng mơ tuyết trắng ngần
Dăm gốc mai vàng chờ mặc khách
Một vườn cúc bạch đợi Đông Quân
Duyên thơ ý bút tình phong kín
Thức giấc đêm trường mộng cố nhân





Bài Họa
Lạc Cánh Chim Hồng


Họa Đối Luật


Thuỳ Linh


Chim hồng lạc hướng một chiều xuân
Lặng lẽ trông vời bạn góc sân
Gió lướt vầng mây trời lặng ngắt
Hồ in bóng liễu nước trong ngần
Nhụy vàng hàm tiếu say tài tử
Mắt biếc tiểu thư nhớ tướng quân
Chút mảnh tình thơ xin cất giữ
Canh dài bấc lụn mộng hoài nhân
.




Nghe Chim Hồng gọi bạn


Cát Vân


Ơi chú chim hồng thơm gió xuân
Hẹn hò đợi bạn ghé trong sân
Cánh bay tô điểm vườn cây biếc
Giọng hót làm tan giọt tuyết ngần
Say đắm miên man lời mộ khúc
Tương tư vời vợi dáng tình quân
Âm vang tha thiết nao chiều vắng
Quên hết thăng trầm mặc thế nhân.

ĐÊM MƯA LỮ THỨ

Bài Xướng

Trần Nhất Lang


Chiều nay ngồi đếm giọt mưa rơi
Mây xám giăng giăng mịt khắp trời
Dăm đám chim rừng bay kiếm tổ
Đôi hàng cánh vạc vượt tìm nơi
Vó câu lữ khách dừng bên quán
Thuyền cá ngư ông cập dưới đồi
Chén cúc ấm lòng đêm viễn xứ
Mơ về Gác Mộng nhớ đầy vơi.






Bài Họa


Chiều Mưa Phố Lạ


Họa Đối Luật


Thuỳ Linh


Gió đuổi mưa chiều nặng hạt rơi
Đan mành trắng xoá phủ khung trời
Đàn chim lạc hướng bay đôi ngã
Viễn khách lỡ đường trú một nơi
Người nhớ bâng khuâng bên chén nguyệt
Ngày qua lặng lẽ dưới chân đồi
Vần thơ còn gửi trong vườn Mộng
Thu rót lầu xưa tiếng nhặt vơi
.




Giọt Sầu Đêm Mưa


Khánh Ngọc


Tiếng mưa hay tiếng giọt sầu rơi
Mù mịt không gian một góc trời
Gác vắng đèn khuya mờ khắp chốn
Rèm thưa bóng tối nhạt đôi nơi
Vội vàng đám Sếu quay về núi
Tất bật đàn nai trở lại đồi
Tôi bước giữa đêm đông giá lạnh
Nhớ người quay quắt dạ chơi vơi

MỐI DUYÊN THƠ

Bài Xướng

Thuỳ Linh


Thời gian vẫy cánh vượt bay qua
Biển rộng non cao cách hải hà
Dẫu chữ không đan vườn nguyệt vắng
Còn tình vẫn gửi áng mây xa
Gói bao kỷ niệm chiều nghiêng nắng
Gom bấy thương yêu bóng xế tà
Muôn nẻo đường đời duyên đã gặp
Những vần thơ mộng ngát hương hoa.






Bài Họa


THƠ DUYÊN


Trần Nhất Lang


Thấm thoát thời gian đã vụt qua
Đôi mình cách biệt mấy quan hà
Quê hương khắc khoải chòm mây bạc
Quán trọ mong chờ bóng khách xa
Ngày nhớ rót đầy chiều ác xế
Đêm thương tràn ngập buổi trăng tà
Duyên thơ xin tạ người tri kỷ
Ghi mãi trong lòng những đóa hoa.

PHƯỢNG TÍM

Bài Xướng

Thuỳ Linh


Phượng tím rơi đầy trải lối xưa
Mùa hoa nở rợp nhớ sao vừa
Chiều nghiêng phủ bóng cành xao lá
Mây ngã giăng trời gió chuyển mưa
Con lốc thời gian đi trống vắng
Cánh thơ kỷ niệm viết dư thưà
Người xa dấu cũ còn lưu luyến
Phương tím rơi đầy trải lối xưa






Bài Họa


HOA XƯA THỀM CŨ


Trần Nhất Lang


Hoa phượng bên thềm ngập bước xưa
Nhớ sao người cũ mấy cho vừa
Một hàng bông tím rơi hiên vắng
Đôi guốc chân son đợi phố mưa
Mấy chục năm chờ đâu thấy đủ
Bao nhiêu tháng đợi vẫn không thừa
Tiễn nhau ai biết là ly biệt
Hoa phượng bên thềm ngập bước xưa.

SOI BÓNG MÌNH TRÊN VÁCH NẮNG

( Kính tặng Đại Sư Huynh T.N.L) 

Diệp Đỗ An


Ta tạc bóng mình vách nắng này
Nét nghiêng lòng xót ngọn cờ bay
Khóc bao bằng hữu vì quê mẹ
Quên nhắc người xưa tựa bóng mây
Dũng Tướng nhớ đường gươm Võ-Bị
Non Sông tiếc thế trận Sơn Tây
Vuốt chòm râu bạc tìm tri kỷ
Rượu uống cạn chung chẳng đủ say


San Jose Ngày 29 Tháng Mười Năm 2009 






Bài Họa


HÌNH AI IN VÁCH NẮNG 


Trần Nhất Lang


Ai ngắm trời xanh bóng xế này
Nghiêng theo ngọn gió lá thu bay
Điểm tên tháng cũ thương bằng hữu
Quên chuyện ngày xưa gửi áng mây
Một thuở tang bồng tung vó ngựa
Nửa đời ngang dọc nhớ Sơn Tây (*)
Đêm ru giấc điệp Hoàng Lương mộng (**)
Cạn túi thơ tình mấy chén say. 
.

(*) Quân Tây Sơn của vua Quang Trung đại phá quân Thanh.
(**) Giấc mộng Kê Vàng.

GIẤC MƠ THIÊN THẦN

Bài Xướng

Khánh Ngọc


Mắt bồ câu nhẹ khép hàng mi
Này hỡi bé ơi đang ước gì
Hãy để tiếng ru vang khúc ái
Cùng nghe lời hát vọng tình si
Vai kề dáng ngọc thương nhiều lắm
Má tựa thân ngà nhớ quá đi
Trong giấc mộng thường em có thấy
Thiên thần cánh trắng tựa trà mi.






Bài Họa


GIẤC MƠ HOA


Trần Nhất Lang


Má hường gối điệp khép đôi mi
Trong giấc mơ hoa thấy những gì?
Có phải én bay nơi luyến nhớ
Hay là bướm lượn cõi mê si
Cầm tay lối gió chờ trăng tới
Dìu gót đường sao níu bước đi
Ánh nguyệt bên hè soi gác vắng
Sương đêm gieo ngọc đóa đồ mi

NỤ TẦM XUÂN

Bài Xướng

Khánh Ngọc


Gió lay đùa nhẹ nụ tầm xuân
Biêng biếc như cô thiếu nữ tân
Hoa thắm dịu dàng in thảm lụa
Mùi thơm thoang thoảng lộ phong vân
Mặn mà đôi tám trăng huyền ảo
Duyên dáng mười lăm ngọc trắng ngần
Một thoáng hương trinh còn đượm nét
Ngẩn ngơ thi sĩ dệt dăm vần.





Bài Họa Hoán Vận


HOA XUÂN


Trần Nhất Lang


Sương bay phơn phớt đóa hoa xuân
Cành lá lung linh móc trắng ngần
Thấp thoáng tơ giăng hàng bạch cúc
Dập dìu én liệng nẻo thanh vân
Song đào bóng nguyệt soi đôi bạn
Lầu hạc nhà thơ hạ mấy vần
Đâu thoảng men tình hương ngọc nữ
Đàn ai bỗng dạo khúc thanh tân.
.

HƯƠNG XƯA

Bài Xướng

Khánh Ngọc


Chiều đi nắng tắt quyện mây trời
Nhạn trắng từng bầy lượn sóng đôi
Lấp lánh trăng non bên phố núi
Võ vàng cỏ úa cạnh ven đồi
Suối tuôn lời hẹn theo dòng chảy
Sông thả câu thề cuốn nước trôi
Chạnh nhớ làn hương xưa, ánh mắt
Đường tình lối rẽ một mình tôi.






Bài Họa


HOÀI NIỆM CHIỀU THU


Trần Nhất Lang


Chiều ngả rừng thu tím góc trời
Hạc về soải cánh nối từng đôi
Đường xưa trăng rọi xuyên cành lá
Lối cũ sương giăng phủ núi đồi
Lời nguyện hôm nao làn nước chẩy
Câu thề dạo ấy áng mây trôi
Hương tình gợi nhớ bao hoài niệm
Em vẫn là em mãi của tôi.
.

BÂNG KHUÂNG NHỮNG GIỌT MƯA

Bài Xướng

Khánh Ngọc


Tí tách mưa rơi gõ mái tôn
Âm thanh buốt lạnh thấm vào hồn
Nhìn quanh bốn phía lòng sầu úa
Ngoảnh lại tư bề dạ héo hon
Nhớ mãi bàn tay đan tóc biếc
Thương hoài ánh mắt ngắm môi son
Chợt nghe nong nóng trên gò má
Giọt lệ bâng khuâng lẫn tủi hờn.






Bài Họa


GIỌT MƯA ĐÊM


Trần Nhất Lang



Rả rích mưa buồn rớt nóc tôn
Canh khuya giá lạnh thấu trong hồn
Rừng phong cây lá thêm vàng úa
Thân liễu ruột tầm mãi héo hon
Muốn gạt niềm đau vơi lệ thảm
Mà xua nỗi nhớ nhẹ lòng son
Giọt Tương lã chã nào ai thấu
Duyên kiếp chia ly tủi phận hờn.
.

NGÀY RẰM MÙA THU THĂM CHÙA SHI LAI

Bài Xướng

Trần Nhất Lang


Lá rụng sân chùa gió cuốn bay
Nắng nghiêng mái ngói dáng thu gầy
Hồi chuông tiếng mõ xua niềm tục
Lọn tóc câu thề gửi bóng mây
Biển nhớ ngàn trùng khôn tát cạn
Sông quên muôn trượng khó đong đầy
Hỏi thăm cực lạc nơi nào nhỉ?
Đò Giác còn chờ hướng phía Tây.






Bài Họa


Mưa cuối mùa Thu


Cát Vân


Mưa cuối thu buồn lất phất bay
Mưa trên hiu hắt nhánh trơ gầy
Mưa thành lệ rớt đau lòng đá
Mưa bạt trời sầu vỡ thức mây
Mưa ướt vai mềm thương chất ngất
Mưa len tóc rối nhớ dâng đầy
Mưa mờ môi mắt ngày ly biệt
Mưa xót chi mà lạnh gác Tây ..
.

ĐÊM THU NGHE MƯA RƠI

ĐÊM THU NGHE MƯA RƠI


Bài Xướng

Trần Nhất Lang


Thuyền khuya ai đậu chốn giang đầu
Gió tạt mưa rơi lạnh bến sâu
Pháp quốc năm dài vương ngấn lệ
Hoa Kỳ tháng lụn nhỏ dòng châu
Bao thu đất khách hoa buồn tủi
Ngàn dậm quê hương nước dãi dầu
Khói sóng sông Seine trôi chẩy mãi
Một dòng kim cổ gửi về đâu?





Bài Họa Nương Vận


HẠ CUỐI MÙA THU

Khánh Ngọc 


Thuyền ai neo giữa bến Tương đầu
Tiếng sáo Lạc Mai dạ lắng sâu (*)
Thành Nội chốn xưa trăng nhớ bến
Sài Gòn cảnh cũ khách rơi châu
Anh đi lá úa thu sầu muộn
Em ở hoa phai nguyệt dãi dầu
Mỗi độ sang mùa bao nỗi nhớ
Hỏi người viễn xứ mộng về đâu ?
.

(*) Lạc Mai Hoa là tên một khúc sáo rất thê lương buồn bã khiến người nghe chạnh nhớ quê nhà.

THUYỀN TRÊN SÔNG THU

Bài Xướng

Trần Nhất Lang


Thuyền ai buông lái giữa dòng Thương
Lờ lững trôi xuôi mấy dậm trường
Làn gió đưa mây luồn mái trúc
Heo may gieo ngọc thấm cành sương
Vầng trăng lạnh lẽo soi lầu Hạc
Tiếng địch não nùng vọng bến Tương
Gác vắng đêm thu người ngóng đợi
Mơ theo điệu sáo nhớ chàng Trương.






Bài Họa


THUYỀN ĐÊM ĐẬU BẾN SÔNG THU

Khánh Ngọc 


Một chiếc thuyền con đậu bến Thương
Vầng trăng sóng gợn suốt canh trường
Mây vin tà áo bay làn gió
Chèo gác mui bồng thấm giọt sương
Bóng nguyệt trên cao đưa cánh hạc
Dòng châu dưới gối nhớ sông Tương
Giấc mơ gác cũ sầu đêm vắng
Khúc nhạc tương tư vọng sáo Trương.
.

THU KÌA EM

Bài Xướng

Khánh Ngọc


Lá úa bên rừng thu đã qua
Thu nơi đất khách nhớ quê nhà
Thu hương dìu dịu chiều mưa bụi
Thu cúc lung linh buổi nắng tà
Hè đợi thu sang thay sắc áo
Thu chờ sương rớt đổi mầu hoa
Tiết thu se lạnh heo may đến
Hãy đón thu này em với ta.






Bài Họa


ĐÂY MÙA THU TỚI 

Trần Nhất Lang


Cánh hạc tầng không rộn rã qua
Dừng chân chợt nhớ nước non nhà
Lá phong lớp lớp rơi vườn lạnh
Dậu trúc lưa thưa nhuộm bóng tà
Em mượn mây vàng đan nếp áo
Anh chờ cúc trắng vẽ tranh hoa
Đêm nay thu ý về đâu nhỉ ?
Xin ghé lầu thơ sẽ gặp ta.
.

CUỐI NĂM NGỒI BÊN CỬA SỔ

Bài Xướng

Trần Nhất Lang


Ngồi bên cửa sổ tựa bình mai
Đường nhỏ đầu sân vắng dấu hài
Tìm khắp trong nhà không thấy tết
Nhìn quanh trước ngõ chẳng còn ai
Lang thang trời xám mây trôi giạt
Lặng lẽ chiều hoang lá rớt bay
Tháng tận năm tàn thêm nỗi nhớ
Chắt chiu tình cuối mối duyên này.






Bài Họa


CHIỀU XUÂN NĂM CŨ 

Khánh Ngọc


Ba mươi tựa cửa ngắm cành mai
Chạnh nhớ bâng khuâng tiếng gót hài
Từ độ em đi đường vắng tết
Bây chừ anh đến phố không ai
Hững hờ chim én nghiêng mình lượn
Thấp thoáng thiên nga soải cánh bay
Nhặt những hắt hiu sầu xứ lạnh
Chiều xuân năm cũ vọng nơi này
.

TÌNH ĐÃ BAY XA

Bài Xướng

Khánh Ngọc


Tình đã dạt trôi theo áng mây
Ngày nao hạnh phúc đến đong đầy
Mơ màng mắt biếc thầm trao đó
Rạng rỡ môi hồng lén gửi đây
Thuở trước quen nhau hương thắm đượm
Bây giờ xa cách lệ nhòa cay
Hỏi ai sầu lạnh nơi phương ấy
Ta, Nhạn đơn côi đợi chốn này.






Bài Họa


Trần Nhất Lang


Tình đã xa rồi tựa bóng mây
Bao năm ray rứt vẫn vơi đầy
Nhớ hôm thề thốt vầng trăng đó
Thương buổi hẹn hò bến nước đây
Xuân tới em gieo vườn trái đắng
Thu về anh cạn chén men cay
Người xưa dệt mộng đâu còn nữa
Một gánh niềm riêng nặng kiếp này..

TRỞ VỀ

Bài Xướng

Khánh Ngọc


Trời thu ai nhuộm buổi tà dương
Chiếc bóng cô đơn vượt dậm trường
Lữ khách miệt mài nơi viễn xứ
Quê người đòi đoạn chốn tha phương
Bâng khuâng hạ đến hồn vương nắng
Lãng đãng đông qua tuyết nhuộm đường
Trở lại vườn xưa sầu lắng dạ
Ôi sao nhớ mãi một mùi hương.






Bài Họa


NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI


Trần Nhất Lang


Nắng ngả đầu non bóng tịch dương
Dừng chân quán khách giấc miên trường
Lầu loan gối chiếc trăng đôi ngả
Gác mộng đêm dài gió bốn phương
Thu đến mây sầu đan trước ngõ
Đông sang tuyết lạnh phủ bên đường
Xa quê kiếp sống đời cô lữ
Nhớ một cành hoa tỏa ngát hương.

TỐNG BIỆT

(Phỏng theo chuyện Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai )


Trần Nhất Lang


Tam Thủ Độc Vận

I


TIÊN TỬ TIỄN LƯU NGUYỄN RA KHỎI ĐỘNG


Nhìn nhau bịn rin lối Thiên Thai
Xa cách người thương lệ vắn dài
Chén rượu chia tay xin nhớ mãi
Câu thơ tiễn bạn hãy xem hoài
Cành hoa cửa động hương còn thắm
Ly ngọc đầu non vị vẫn say
Tống biệt bên khe lòng thổn thức
Núi xanh rêu phủ bóng trang phai.



II


TIÊN TỬ NHỚ LƯU NGUYỄN 


Một khúc Nghê Thường múa với ai
Thế nhân đâu biết mộng tiên dài
Khói lùa cửa động cành xuân tủi
Mây phủ trần gian bóng nguyệt phai
Nước chẩy đào hoa thơm bến suối
Sương rơi tiên cảnh lạnh hồn mai
Lối xưa chốn cũ người đâu thấy
Khe núi tìm nhau buốt gót hài.



III


LƯU NGUYỄN TRỞ LẠI NÚI THIÊN THAI


Nhớ nhau trở lại núi Thiên Thai
Đá phủ rêu xanh vắng dấu hài
Quạnh quẽ sênh ca nơi cửa động
Biệt tăm mây hạc chốn khe ngoài
Cỏ cây năm trước hoa mờ thắm
Ráng khói ngày xưa sắc nhạt phai
Nơi cũ lối vào nay đã lấp
Ngậm ngùi lui bước cõi trần ai
.

NGẬM NGÙI

Bài Xướng 

Hương Xuân 


Người đi bỏ lại mảnh vườn thơ
Cho kẻ tình si luống thẫn thờ
Hạ trắng phượng hồng khơi nỗi nhớ
Thu vàng lá đỏ gợi niềm mơ
Ngậm ngùi đêm vắng tim mong đợi
Hiu hắt đèn khuya dạ ngóng chờ
Nức nở dòng châu in gối chiếc
Trăng thề rọi bóng, bóng bơ vơ . 





Bài Họa 


Trần Nhất Lang 


Để lại sau lưng chốn gác thơ
Hoa xuân nhớ bạn, gió ơ thờ
Cuộc tình năm trước vầng trăng vỡ
Sự nghiệp bây giờ chiếc gối mơ
Thung lũng hoa vàng ai ngóng đợi ?
Quận Cam biển lạnh khách trông chờ
Bắc thang muốn hỏi chương Thiên Vấn
Chỉ thấy mây ngàn lượn vẩn vơ .

CHIỀU NHỚ

Bài Xướng 

Khánh Ngọc 


Hoàng hôn nhẹ phủ phía chân trời
Tím ngắt một mầu sông nước trôi
Hiu hắt thuyền sương theo bóng nhạn
Thướt tha trăng gió quyện lưng đồi
Tóc vương khói sóng đời cô lữ
Hồn dõi bờ mây phận lẻ đôi
Chiều nhớ đan sầu lên mắt biếc
Hỏi người có thấu mảnh tình tôi .






CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ 


Bài Họa 

Trần Nhất Lang 


Nắng loang vạt cỏ tắt bên trời
In sóng mây hồng nước cuốn trôi
Khuấy mảnh trăng vàng thương cánh hạc
Nhịp tay chèo quế nhớ hoa đồi
Thu buồn bến cũ thân đơn chiếc
Xuân thắm đò xưa buổi sánh đôi
Duyên mới em đi đành lỗi hẹn
Chén say quên lãng một mình tôi .

ÁO TÍM HOA SIM

(Để tưởng niệm Miếu Hai Cô trên Đại lộ Kinh hoàng mùa hè 1972)


Trần Nhất Lang


Tam Thủ Liên Hoàn Độc Vận

I

Buổi ấy quen nhau chốn Giáo đường
Một tà áo tím, tím mầu thương
Anh đi khu chiến gìn thôn xóm
Em ở quê nhà giữ hậu phương
Chiều xuống dừng quân nơi giới tuyến
Trăng lên nhớ bạn nẻo Tiêu Tương (1)
Thư xanh mở khép niềm tâm sự
Khách ở trời Ngô nhớ Lạc Dương.(2)



II

Khách ở trời Ngô nhớ Lạc Dương
Tìm người năm cũ lạc sân trường
Mùa hè binh lửa thiêu thôn đạo
Áo tím hoa sim bỏ giáo đường
Súng nổ bom rơi tràn Quảng Trị
Pháo bay nhà cháy khắp quê hương
Nàng theo di tản cùng em gái
Tử nạn, ai xây Miếu Nhị Nương.(3)



III

Tử nạn, ai xây Miếu Nhị Nương
Em về an lạc chốn Thiên đường
Bao năm khói lửa quê nghèo khổ
Một thủơ ân tình áo tím thương
Bá tánh trầm luân cơn ác mộng
Thế gian giả tạm cõi vô thường
Đi qua Đại lộ Kinh hoàng cũ (4)
Xin thắp cho nàng một nén hương.



Chú thích : (1) Tiêu Tương là chỗ sông Tiêu và sông Tương hợp lại trong tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa, chảy qua Hồ Nam, Trường Sa, vào Động Đình Hồ. Vua Thuấn đi tuần thú xứ Thương Ngô và mất ở đó. Hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đến sông Tiêu Tương ngồi bên bờ sông mà khóc, nước mắt vấy vào những cành trúc. Về sau trúc mọc ở bờ sông này đều lấm chấm trông như đồi mồi. Chữ "Mành Tương" trong Truyện Kiều lấy từ điển này (Mành Tương lất phất gió đàn).
Người ta thường dùng hai chữ "Tiêu Tương" để chỉ việc trai gái thương nhớ nhau.

(2) Mượn ý bài thơ PHÙ DUNG LÂU TỐNG TÂN TIỆM của Vương Xinh Linh viết khi đi làm quan ở đất Ngô, tiễn Tân Tiệm đi Lạc Dương.
Trong bài ÁO TÍM HOA SIM tác giả muốn diễn tả "hai người ở hai nơi và nhớ nhau".

"Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô
Bình minh tống khách Sở sơn cô
Lạc Dương thân hữu như tương vấn
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ."

Trần Trọng San dịch :

Mưa lạnh sông đêm vào đất Ngô
Sáng ra tiễn khách núi trơ vơ
Lạc Dương nếu có ai thăm hỏi
Một mảnh lòng băng ở ngọc hồ.

Trong bài NHỚ CỐ NHÂN của Vũ Hoàng Chương cũng có câu :
"Có kẻ vào Ngô nhớ Lạc Dương".

(3) MIẾU NHỊ NƯƠNG là MIẾU HAI CÔ, nơi người thiếu nữ Áo Tím Hoa Sim và em gái đã tử thương bên lề Đại lộ Kinh hoàng (Quốc lộ 1 mới), cách thành phố Quảng Trị gần 20 cây số về phía nam, nằm phía bắc sông Mỹ Chánh.

(4) Đại lộ Kinh hoàng được đặt tên cho đoạn đường nói trên trong trận chiến mùa hè 1972.



CẢM TÁC SAU KHI ĐỌC BÀI ÁO TÍM HOA SIM


Chuyện Ngoài Đồng Nương 


Trần Đại 


Tam thủ liên hoàn độc vận

1

Đưa tiễn cha con tận cuối đường
Mẹ về lòng nặng nỗi sầu thương
Con thì áo trận ra tiền tuyến
Cha cũng giầy sô trấn hậu phương
Nghìn dặm chia ly sầu núi Sở
Muôn trùng cách biệt lệ sông Tương
Chiều lên đỉnh núi vời trông ngóng
Chỉ thấy mây trời với đại dương



2

Chỉ thấy mây trời với đại dương
Người đi chí dũng dạ can trường
Đao binh khốc liệt ngoài quan ải
Chinh chiến tràn lan khắp nẻo đường
Thiên hạ điu nhau về xứ lạ
Mẹ hiền vẫn đợi ở quê hương
Người con phơi xác lưng chừng núi
Cha lết qua đồng gục dưới nương



3

Cha lết qua đồng gục dưới nương
Nơi đây vừa mở một con đường
Xóa đi tất cả niềm thương nhớ
Để lại một người nỗi tiếc thương
Chinh chiến qua rồi cơn dữ dội
Làng quê trở lại chuyện bình thường
Mỗi lần chân bước qua thôn ấy
Lòng chạnh niềm đau nhớ cố hương 



Sun Aug 16, 2009 



Kính hoạ nghịch vận với đại sư huynh 


Còn đọng niềm thương ** 


Huỳnh Vũ Hoàng Tuấn 


I

Xin thắp cho nàng một nén hương
hai mươi năm lẻ bỏ mộng thường
hết rồi má đỏ chiều buông nhớ
đành biệt mắt nai tối đọng thương
cõi tạm nên về nơi cát bụi
vĩnh hằng phải đến chốn thiên đường
xin em yên nghĩ nghìn thu nhé
Cửa Phật từ bi hãy náu nương 



II

Cửa Phật từ bi hãy náu nương
thấm câu kinh kệ ngát trầm hương
hóa sen tinh khiết an nhiên giới
thành ánh hào quang tự tại đường
không để bi ai đè sáu khắc
chẳng cho khổ lụy vướng canh trường
nguyện cầu theo khói mây bay mãi
dẫu bóng ngoài kia đã tịch dương



III

Dẫu bóng ngoài kia đã tịch dương
trong ta vẫn đọng mãi niềm tương
cỏ xanh đã phủ vàng chân mộ
tóc bạc điểm sương trắng tha phương
bia đá mờ ghi sâu nỗi nhớ
bức hình nhạt dấu đậm màu thương
trăm năm là mấy , phải chăng ngắn
sao chẳng cùng nhau chung một đường ? 



** Viết cho N. Mai người con gái đã ra đi 27 năm qua

Mon Aug 17, 2009


BÀI HỌA


Thy Linh


Hôm nay vào đọc mấy giòng Đường
Vị ngọt pha vào những oán thương
Khóc kẻ lệ thầm nơi chốn hậu
Cảm người gạt nhớ đến xa phương
Tình riêng chàng gửi nơi sông ngộ
Nghĩa trọn thiếp trầm lắng bến tương
Tháng tháng ngày ngày bao ngóng đợi
Giọt buồn ai đổ mấy bờ dương

Giọt buồn ai đổ mấy bờ dương
Khói lửa chưa tan cuộc chiến trường
Đất nước giòng sầu rơi khắp nẻo
Quê Hương tang trắng phủ muôn đường
Anh xuôi kiếp đọa nơi rừng thẳm
Em ở tảo tần chốn nhiễu nhương
Gói ghém thăm ai vùng gió núi
Nhìn người lệ xót đẫm hồn nương

Nhìn người lệ xót đẫm hồn nương
Chàng lại ra đi chốn lạ đường
Khăn trắng thiếp mang niềm tủi hận
Vành sô em liệm kín đời thương
Bao rồi thu đã thay màu lá
Năm tháng đâu xa giấc mộng thường
Mơ nhé một lần về chốn cũ
Cùng vòng tay ấm đắm nồng hương 



Thu Aug 20, 2009

HỌP HÈ THUNG LŨNG HOA VÀNG SAN JOSE, BẮC CALIFORNIA

(Họa bài Cali Phương Bắc của Thy Linh)


Trần Nhất Lang


Họp Hè còn nhớ buổi hôm nào
Thung Lũng Hoa Vàng gió lộng cao
Tà áo tiểu thư in bến nước
Lời ca thân hữu vọng trời sao
Em đi để lại bài thơ nhớ
Anh đến mang theo tiếng hát chào
Một trái tim mềm ai có biết (*)
Không giây mà cột mấy vòng tao. (**)



(*) Thoát ý hai câu thơ cổ :
"Bán sinh phong cốt lăng tằng thậm
Nhất phiến nhu hoài chỉ vị khanh."

Dịch thơ
Nửa đời sương gió ngang tàng
Trái tim mềm chỉ vì nàng đó thôi.

(**) Theo Tự Điển Từ Và Ngữ chữ Tao có nhiều nghĩa, ở đây xin được hiểu là : lần hay lượt hoặc là phen.

CẢM ĐỀ BÀI THƠ ÁO TIỂU THƯ CỦA DÂN CHU

Trần Nhất Lang


Buổi ấy ngày xưa đã mấy thu
Áo em phố núi quyện mây mù
Lời thương đưa lối đường hoa mộng
Ghi mãi trong tim "Áo Tiểu Thư".

BẾN SÔNG MÂY HỌP MẶT HÈ 2009 TẠI SAN JOSE

Trần Nhất Lang


Ba bài


I


Mùa hè Họp Mặt Bến Sông Mây
Khấp khởi chờ trông mấy tháng chầy
Kỳ trước Quận Cam tươi ánh nắng
Hôm nay Miền Bắc ấm vòng tay
Mừng nàng nữ sĩ gieo thơ thắm
Chúc bạn thi nhân cạn chén say
Duyên bút văn chương vui hội ngộ
Sang năm nhớ gọi, sẽ đi ngay.



II


Sang năm nhớ gọi, sẽ đi ngay
Ai viết thư xanh gửi Bến này
Đôi chén tương phùng đưa chấp rượu
Chút tình hội ngộ gửi Sông Mây
Mỹ nhân hạ bút mơ màng tỉnh
Thi hữu đề thơ chếnh choáng say
Họp Mặt lần sau xin nhớ hẹn
Dù Nam hay Bắc có huynh đây.



III


Dù Nam hay Bắc có huynh đây
Nghỉa bút tình nghiên đợi tháng ngày
Khúc hát vương tôn thơ tiếp nối
Áo dài mệnh phụ gió đưa bay
Người đi để nhớ giăng Thung Lũng
Kẻ ở ươm buồn dõi Bến Mây
Những buổi Họp Hè bao kỷ niệm
Ta về đối nguyệt mái Lầu Tây.

ĐÔI BỜ ĐẠI DƯƠNG

Trần Nhất Lang


Đại dương xa thẳm cách đôi bờ
Kẻ ở miền tây nhớ đất Ngô (*)
Trăng nước Giang Đông lầu kẻ đợi
Núi sông Ba Thục bến người chờ
Nhớ thương một thuở tình như mộng
Ly biệt bao ngày sống tựa mơ
Mòn mỏi đợi nhau chung gác nguyệt
Cung cầm vẫn hẹn nối giây tơ.



(*) Xứ Đông Ngô của Tôn Phu Nhân
vợ Lưu Bị trong truyện Tam Quốc.

XUÂN KỶ SỬU CHƠI BIỂN HAWAII

Trần Nhất Lang


Ngày xuân Kỷ Sửu núi không leo
Về biển Hawaii khuấy mái chèo
Bát ngát trời mây tìm cảnh vẽ
Mênh mông sóng nước chọn vần gieo
Tung tăng muốn tựa loài cò vạc
Trôi giạt màng chi cảnh bọt bèo
Rượu nhấp lời thơ bay bổng mãi
Chén vàng trăng rọi vẫn đi theo.

MÙA XUÂN KỶ SỬU

Bài Xướng

Trần Nhất Lang


Mười thu nghiên bút mối duyên tơ
Hoa bốn mùa xuân đẹp ý thơ
Phố Núi tri âm đan lưới nhớ
Quận Cam mặc khách dệt câu chờ
Song mây sao lặn tàn canh mộng
Lầu hạc trăng tà héo giấc mơ
Kẻ ở đầu sông em có biết
Ngàn năm kim cổ nước xuôi bờ.






BÀI HỌA


Bóng tàn xuân


Cát Vân


Tàn xuân năm ấy đứt đường tơ
Tiễn bước nhau về úa cánh thơ
Lặng lẽ đàn ngưng im tiếng đợi
Ưu tư bút nghẹn dấu lời chờ
Người trên sóng cả đau hồn nước
Kẻ ở rừng sâu tắt ước mơ
Ly biệt trùng trùng sầu vạn ngã
Sông dâng từ lệ chảy đôi bờ ...

ĐI LỄ MÙA XUÂN

Bài Xướng

Cát Vân


Mùa Xuân hội lễ tận trên đèo
Dốc đứng thoài lên phải cố leo
Bão táp vừa tan cây cối ngã
Nắng về lại rủ gió ngàn reo
Bò theo thằng nhóc tay tay đỡ
Để rớt mồ hôi giọt giọt gieo
Vẳng tiếng chuông ngân quên cả mệt
Von von một bụng cũng ham trèo







BÀI HỌA 1


Thanh Thủy Tự *


Thùy Linh


Thanh Thủy chùa xa tận chót đèo
Sườn trơn đá dựng dốc cheo leo
Loanh quanh khóm trúc hồi chuông đổ
Khúc khủy đồi mai tiếng gió reo
Vượt khỏi lầu chuông màn khói quyện
Xuyên qua cổng chánh giọt mưa gieo
Chon von cột gỗ treo hùng vĩ
Mái ngói giăng mây ráng sức trèo


*Thanh Thủy Tự (Kyzomizu) ngôi chùa cổ bằng gỗ, tài sản quốc gia của Nhật, công trình xây dựng vĩ đại từ thế kỷ 15, chùa rất cao ngang tầm núi, 4 mùa cảnh đều rất đẹp ...





BÀI HỌA 2


NGÀY XUÂN THĂM CHÙA LỄ PHẬT


Trần Nhất Lang


Sơn Tự chênh vênh tận cuối đèo
Đường lên khúc khuỷu nối đuôi leo
Sườn non vi vút đàn thông dạo
Vách đá quanh co thác nước reo.
Lắng đọng lời kinh, tâm Tuệ mở
Ngân nga câu kệ, tiếng kình gieo
Tháng Giêng cầu Phật hơn năm lễ (*)
Dù nắng hay mưa cũng phải trèo.


(*) "Đi lễ quanh năm không bằng ngày Rằm tháng Giêng."

NGÚT NGÀN

Bài Xướng

Cát Vân


Chiều xuống vương vương cọng nắng vàng
Có người ngồi hóng gió xuân sang
Chung trà quyện khói lồng nhân ảnh
Bóng lá đùa sân ngỡ bước nàng
Dĩ vãng quay về còn khắc khoải
Tơ lòng xe lại vẫn miên man
Ân tình xưa đã là hư ảo
Sao cứ khơi thương nhớ ngút ngàn






BÀI HỌA 1

Đợi Người


Thùy Linh


Lộng ráng chiều pha vệt đỏ vàng
Từ miền sa mạc nắng nghiêng sang
Trông con chim sẻ đang chờ bạn
Ngẫm khách thi nhân có nhớ nàng
Mộng cũ còn nồng duyên thắm thiết
Mơ xưa vẫn đẹp giấc miên man
Anh ơi có biết em còn đợi
Tin nhạn phương xa chốn núi ngàn






BÀI HỌA 2


Trần Nhất Lang


Nắng ngả còn vương mấy sợi vàng
Bên hiên ngồi đếm lá mùa sang
Làn mây chiều khói mơ mầu áo
Bóng nguyệt sân hoa tưởng dáng nàng.
Bến nước ngoài sông thu lãng đãng
Lời quyên trước ngõ dạ lan man
Thơ tình ế ẩm, theo tiều lão
"Một gánh kiền khôn quẩy xuống ngàn." (*)


(*) Thơ Trần Khánh Dư trích trong Văn Đàn Bảo Giám.
Trần Khánh Dư sau này là danh tướng nhà Trần, đã chiến thắng trận quyết định Vân Đồn, đốt cháy hết lương thực của quân Nguyên. Thoát Hoan và tàn binh phải chạy trốn về Tầu.

LÃO TƯỚNG HOÀNG TRUNG

ĐÁP THÙY LINH


Trần Nhất Lang


Lão Tướng Hoàng Trung mãi chẳng già
Bẩy mươi xung trận tiếng đồn xa
Đoạt thành chém giặc gìn non nước
Phóng tiễn ngăn thù báo quốc gia.
Mỹ tửu trăm ly vung báu kiếm
Giai nhân nghìn lạng tặng kim thoa
Bao năm sống mãi cùng xanh sử
Người chết lưu danh, cọp để da.

ĐÁP THÙY LINH

Trần Nhất Lang


Những mong sống trọn kiếp thân già
Ai dám tơ lòng nghĩ ngợi xa
Sáng dậy thăm vườn xem chậu cúc
Chiều buông tản bộ ngắm cành hoa.
Đâu người tri kỷ chia chăn phượng
Nào khách hồng nhan điểm nhánh thoa!
Cái số cô đơn đành chịu vậy
Lai sinh xin mặc áo cà sa.

HỒI ĐÁP CÁT VÂN


Trần Nhất Lang


Lọm khọm nghe ai luận chữ già
Đường về Tây Trúc hãy xa xa
Lợi còn những muốn ăn tô cháo
Răng hết không ham gặm cẳng gà.
Đâu kẻ thân tình trao ngọc bội
Nào người thương mến tặng kim thoa
Đợi ngày vé rẻ lên cung Quảng
Chẳng được tiền tiêu cũng gói quà.

HỒI ĐÁP THI MUỘI

Trần Nhất Lang


Huynh biết năm nay tuổi đã già
Nàng thơ ngán ngẩm cũng rời xa
Gạo châu củi quế tiền vay nợ
Rau muống vò tương job đuổi gà.
Cô chủ quan tâm cho thuốc bóp
Bà lang thương hại tặng dầu thoa
Yên thân sống hết đời luân lạc
Nếu có lai sinh đến Phổ Đà. (*)



(*) Phổ Đà là tên ngôi chùa trong truyện Tây Sương Ký.
Ở đây tác giả muốn nói nếu đầu thai thì xin được nương mái cửa Chiền :
"Ngày pho thủ tự, tối nồi tâm kinh"

CHUỐC RƯỢU ĐÊM TRĂNG

Bài Xướng

Thuỳ Linh.


Xướng họa ngày xưa thật xứng tay
Tâm tư trải rộng giấy hoa cài (*)
Chia đôi gánh nhớ vầng trăng mộng
Sẻ nửa đêm sầu chén ngọc say
Lãng tử phiêu du nơi dậm khách
Thi nhân phong kín chốn trang đài
Mười năm bút mực mười năm nhớ
Đời vắng em rồi, viết gửi ai?.


(*) Là giấy hoa tiên để viết thư.





Bài Họa 1


ĐỘC ẨM ĐÊM TRĂNG


Trần Nhất Lang


Trời xanh trong vắt mảnh trăng cài
Phố Núi yên bình giấc ngủ say
Làn nước thu hồ in dáng liễu
Gót sen xuân nữ ngắm bông lài.
Chén vàng dưới nguyệt nâng tay chuốc
Hạc trắng trên non cất cánh bay
Thế sự màng chi, thơ với rượu
Bên hiên độc ẩm khướt canh dài.




Bài Họa 2


Độc ẩm dưới trăng


Cát Vân


Lơ lửng trên cao đóa nguyệt cài
Không gian trầm lắng quyện hồn say
Sáng rơi dìu dịu xuyên mành lá
Hương tỏa lâng lâng ngát cánh lài
Môi chạm đăm chiêu men rượu ngấm
Ý đầy hào sảng vóc thơ bay
Đêm nghiêng nghiêng xuống thêm huyền hoặc
Độc ẩm bên hiên bóng ngã dài

ĐỜI VẮNG EM RỒI

Bài Xướng

Trần Nhất Lang.


Xướng họa ngày xưa thật xứng tay
Tâm tư trải rộng giấy hoa cài (*)
Chia đôi gánh nhớ vầng trăng mộng
Sẻ nửa đêm sầu chén ngọc say
Lãng tử phiêu du nơi dậm khách
Thi nhân phong kín chốn trang đài
Mười năm bút mực mười năm nhớ
Đời vắng em rồi, viết gửi ai?.


(*) Là giấy hoa tiên để viết thư.





Bài Họa

Mối Tình Thơ


Cát Vân


Như mối tơ hồng buộc ngón tay;
Tình trao huyền diệu vóc thơ cài.
Lời hoa tô ửng làn môi thắm,
Ý bướm làm ngời ánh mắt say.
Thu mộng, mơ chàng lay nét bút,
Xuân trinh, đặt thiếp ngự tâm đài.
Rung ngàn cánh chữ cùng xao động
Bay nhẹ về trong nỗi nhớ ai.

PARIS TÌNH NHỚ

Bài Xướng

Tiểu Vũ Vi


Paris giã biệt tự thu nào
Lụa bạc mờ giăng cổ tháp cao
Xuống bến sông Seine nhìn sóng nước
Lên đồi Montmartre ngắm trăng sao
Nhà thờ Thánh Mẫu vang lời nguyện
Khu phố La Tinh ngập tiếng chào
Bên quán cà phê trời lộng gió
Vỹ cầm ai kéo điệu thanh tao.





Bài Họa


NHỚ VỀ ĐÀ LẠT



Trần Nhất Lang.


Rời xa Đà Lạt tự năm nào
Thành thố sương mờ phủ núi cao
Bến đập Đa Nhim quyên nhớ nước
Mặt hồ Than Thở vạc kêu sao.
Đài sen Sơn Tự không người viếng
Thung lũng Tình Yêu vắng bướm chào
Hưng phế bao mùa dâu hóa bể
Đàn ai bỗng dạo khúc tiêu tao.

Sunday, November 1, 2015

TANG BỒNG XẾP GÁNH


Trần Nhất Lang.


Thuở ấy tang bồng vượt núi non
Đôi vai cung kiếm sức chưa mòn
Trông ra chẳng thẹn cùng huynh đệ
Ngoảnh lại đâu buồn với cháu con
Mấy độ can qua đầu bạc trắng
Bao mùa chinh chiến nghĩa vuông tròn
Phòng thu khép cánh vui kinh mõ
Đất khách phương trời giữ tấm son.






Bài Họa


KHUÊ PHỤ THÁN



Trần Nhất Lang.


Viễn xứ đôi dòng gửi cháu con
Ba mươi năm lẻ đếm trăng tròn
Phương trời mây giạt đau tình nước
Đất khách hoa chìm thẹn nghĩa non
Món nợ lưu đầy lòng trĩu nặng
Nỗi hờn vong quốc dạ thon von
Quyết xoay đổi hướng huyền cơ lại
Trung hiếu hai vai há dễ mòn.

MỘT PHIẾN ĐAN TÂM

Trần Nhất Lang.


Mái chèo đi khắp nước cùng non
Cung tiễn trên lưng vượt dậm mòn
Thế sự coi thường câu hiểm ác
Đường đời nào ngại bước chon von.
Hiếu trung một gánh tô lòng đỏ
Tiết nghĩa hai vai giữ phận tròn
Phủi sạch tang bồng tay trắng vỗ
Đan tâm để lại cháu cùng con.

ĐÊM LIÊU TRAI

Trần Nhất Lang.


Khép nửa song mây mộng cánh bằng
Gót sen lãng đãng dưới màn trăng
Trà khan càng giục niềm thương dậy
Trầm ngát thêm đau nỗi nhớ giăng
Có phải em về tranh Ngọc Nữ
Hay là dáng quyện bóng thu hằng
Hây hây làn gió hồn say tỉnh
Hương thoảng mành loan, Muội đó chăng?

CẢM TÁC MƯỢN VẦN INH

Trần Nhất Lang.


Đi lễ ngày xuân nón Huế xinh
Khói vương gót ngọc, thoảng chầy kình
Cầu an gia đạo tròn tâm ý
Nguyện ước nhân duyên vẹn chữ tình
Sóng dạt mưa bay bền sắt đá
Hoa trôi nước chẩy vững lòng tin
Sông Hương nẻo ấy người đâu tá?
Núi Ngự mây phai một bóng hình.

HOA BƯỚM QUA RỒI

Trần Nhất Lang.


Mấy mùa đếm lá rụng hiên Tây
Lứa tuổi thanh xuân nỗi nhớ đầy
Những buổi tựu trường lòng khấp khởi
Bao chiều tan học dạ ngây ngây
Guốc sơn gõ nhẹ hàng me rợp
Nón lá che nghiêng vạt áo bay
Đã quá xa rồi hoa với bướm
Chùa đâu ai nện tiếng thu chầy.

THƠ LÀM BUỔI SÁNG MÙA XUÂN

Bài Xướng
Trần Nhất Lang. 

Đeo đuổi bao năm một chữ đồng
Tưởng rằng duyên nợ hóa ra không
Tình thơ ray rứt đời thi sĩ
Gió bụi phôi pha kiếp má hồng.
Son sắt đành cam thuyền đợi bến
Đá vàng sao bỏ khách sang sông
Ai về nhắn với người năm cũ
Có kẻ xuân về khóc gió đông.




Khúc tự tình

Bài họa hoán vận 
Tiểu Vũ Vi



Ai bày lá thắm với tơ hồng
Lại rẻ thuyền tình lạc bến sông
Vạn lý chia ngăn nào bội ước
Nghìn trùng xa cách vẫn tâm đồng
Đợi chờ son sắt bao mùa hạ
Trông ngóng mỏi mòn mấy tiết đông
Góc phố còn đây mưa kỷ niệm
Hỏi người phương ấy nhớ hay không? 


22/02/09 


Bài Họa 2
Họa Nguyên Vận



Thơ làm buổi tối mùa đông

Cát Vân

Tâm tư quyện kết ý tương đồng
Chẳng nợ nên rồi cũng hóa không
Đâu chắc tình thơ bền mối chỉ
Mà đau duyên phận úa hoa hồng
Câu thương ngăn cách bao bờ bến
Chữ nhớ xa vời vạn nẻo sông
Tay với tìm nhau trong ký ức
Ru hồn ấm lại giữa hơi đông 




Bài Họa 3
Họa Nguyên Vận



Thơ làm trong đêm hè

Thùy Linh



Đàn xưa vắng bặt nhịp tơ đồng
Ước nguyện ba sinh gió thoảng không
Số phận lao đao người dũng tướng
Uyên ương dang dở khách nhan hồng
Ân tình gửi nhớ mây đầu núi
Tâm sự đong sầu nước cuối sông
Cánh nhạn gửi tin về chốn ấy
Ngậm ngùi xuân đến ngỡ sang đông

THĂM HOA SƠN TRANG CHỦ KHÔNG GẶP

Bài Xướng


Trần Nhất Lang


Xách kiếm ra đi chẳng đợi chờ
Đỉnh Hoa còn lại bóng trăng mơ
Rót tràn chén nguyệt đôi bầu rượu
Nhốt chặt thu ca một túi thơ
Mượn sóng Ngũ Hồ tìm Phạm Lãi
Xuôi giòng Xích Bích kiếm ông Tô
Bạn xa, trăng giãi khô ly ngọc
Biết luận cùng ai mấy cuộc cờ. 






Bài Họa 1


Cát Vân


Cõi mộng đêm nao khắc khoải chờ
Một lần về lại nối cơn mơ
Ân tình phai nhạt mờ nhân ảnh
Tri kỷ xa vời khép áng thơ
Ngắm mái hiên im vầng nguyệt tỏ
Nhìn hàng mây lạc sắc trời tô
Bâng khuâng ngàn nỗi đời xuôi ngược
Bỏ cuộc xoa tay gác ván cờ






Bài Họa 2


Thùy Linh


Người xa biền biệt hết mong chờ
Nguyệt dạ non Hoa tỏa khói mơ
Gom đủ càn khôn dăm nét chữ
Vớt đầy trăng gió nửa thuyền thơ
Lên lầu Hoàng Hạc thăm Thôi Hiệu
Khỏa nước Tây Hồ viếng cụ Tô
Kim cổ gương soi đời chẳng thẹn
Chung trà điệu phú dịch quân cờ

CÁNH BUỒM CHIỀU VỀ XÓM BÓNG (*)

Trần Nhất Lang


Rải rác bên sông mấy xóm nhà
Trời chiều ác lặn dãi xa xa
Chen chen thuyền đậu bên doi liễu
Lác đác chài bơi cạnh vũng hoa
Thi lão chờ trăng miền khoáng dã
Ngư ông phơi lưới bãi bình sa
Ai người đội nguyệt chèo lan vẫy
Khúc hát Thương Lang cất tiếng ca. (**)


(*) Là Xóm chài Cầu Bóng, ở phía bắc thị xã Nha Trang chừng sáu bẩy cây số, có cây cầu bắc qua con sông chảy ngang xóm làng, gọi là Cầu Bóng. Cuối năm 1954 và 1955, huynh có đóng binh tại đây, có dịp được chuyện trò với các vị bô lão trong xóm làng. Nhiều vị rất uyên thâm Hán học, bình giảng Đường Thi cho các cụ nghe. Đây cũng là một kỷ niệm đẹp và là động cơ thúc đẩy huynh mê say Thơ Đường sau này.
Những cảnh tả trong bài thơ này hầu hết là cảnh thật. Chỉ dùng vài ba mỹ từ cho câu thơ thêm đẹp như chữ "Vũng hoa, chèo lan." Còn Doi Liễu đúng là hồi đó có cây liễu cổ thụ lâu đời bên doi cát.

(**) Tên một phần sông Hán. Do lấy trong thơ cổ :

"Thương Lang chi thủy thanh hề,
Khả dĩ trạc ngã anh;
Thương Lang chi thủy trọc hề,
Khả dĩ trạc ngã túc."

Nghĩa là :

Sông Thương nước chẩy trong veo
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta.
Sông Thương nước đục chẩy ra
Thì ta lội xuống để mà rửa chân.


Nghĩa bóng, ý nói thời thái bình ra gánh vác việc đời, thời loạn lạc lui về ở ẩn.





Bài Họa Nương Vận


Chiều Thôn Dã


Thùy Linh


Chiều nghiêng khói tỏa nóc gian nhà
Vạc muộn bay về rẫy lúa xa
Loáng thoáng sương lan mờ dốc núi
Bồng bềnh mây vẩn nhạt đường hoa
Mục đồng dẫn nghé hoàng hôn xuống
Thôn nữ bơi xuồng bóng tối sa
Có mảnh trăng liềm treo lửng lửng
Làng trên giã gạo tiếng hò ca

GIẤC MƠ HỒI HƯƠNG

Trần Nhất Lang


Lệ vương giếng cạn mắt thành sầu
Bèo giạt mây trôi tận mãi đâu?
Tri kỷ trọn đời không dễ có
Mà sao ngăn biển, cách non sâu.

Non sâu mòn mỏi đợi ai về
Bạt gió chim bằng lướt dậm khê
Cử án tề mi nâng chén cúc
Tẩy trần chung rượu thú tình quê.

Tình quê thanh đạm đẹp lòng thơ
Thông núi vi vu dạo tiếng tơ
Dưới nguyệt đề thi quỳnh nở đóa
Bên hiên nhấp chén điểm quân cờ.

Bàn cờ, tiếng hạc thú tiêu dao
Gió mát trăng thanh Động Bích Đào
Đạp tuyết tầm mai theo dốc núi
Bình sa lạc nhạn đếm trăng sao.

Trăng sao xum họp chén đầy vơi
Má phấn hương nồng, lệ hết rơi
Non nước những ngày xuân thuở ấy
Hoa đăng kết sáng khắp khung trời.

THÁNG NGÀY TIÊU SÁI

Trần Nhất Lang


Cuộc cờ, tiếng hạc thú tiêu dao
Gió mát trời thanh Động Bích Đào
Đạp tuyết tầm mai theo dốc núi
Bình sa lạc nhạn ngắm trăng sao.
Một hiên lan cúc hoa tươi thắm
Nửa gánh đàn thơ mộng vút cao
Cất chén yên hà vui xướng họa
Ngâm câu phong nguyệt bướm bay chào. 






Mộ Xuân Hoài Cảm


Bài Họa

Tiểu Vũ Vi


Lòng đêm e ấp đóa quỳnh dao
Hồ tịnh đong đưa bóng liễu đào
Bàng bạc sương mờ dòng suối mộng
Lung linh nguyệt tỏ bến sông sao
Đỗ Quyên cợt gió im đầu lặng
Hoàng hạc vờn mây xoải cánh cao
Trời đất giao duyên hồn gợi cảm
Vô thường xuân gọi tiếng thơ chào






NGẮM HOA QUỲNH


Bài Họa Chuyển Đề

Cát Vân


Bên vườn Quỳnh ngát với cành dao (*)
Đôi bạn cùng nâng chén rượu đào
Ngắm khúc nghê thường hoa hé cánh
Nhìn trời diễm ảo nguyệt đùa sao
Vài câu thơ hạ lời bay bổng
Một mối tình dâng ý ngút cao
Thoang thoảng hương tràn qua lối mộng
Hồn nghiêng theo ánh mắt say chào


(*) Kiều: Một vùng như thể cây quỳnh cành dao

HÒN VỌNG PHU

Trần Nhất Lang


Tượng đá Vọng Phu đứng mãi trông
Con thơ trẻ dại cánh tay bồng
Ngàn năm tiết hạnh treo kim cổ
Một tấm trung trinh giãi núi sông
Sương tuyết phôi pha khuôn mặt trắng
Gió mưa phai nhạt khóe môi hồng
Thương thay cho nỗi oan tình ấy
Gương cũ soi chung đạo vợ chồng.

BÀI THƠ THÁNG TƯ

Trần Nhất Lang


Thời loạn chuyện đời lắm đổi thay
Sao rơi, hoa rụng mấy ai hay
Má hồng buổi ấy tình tha thiết
Tóc bạc đêm qua lệ ngắn dài
Thành quách chuyển dời thay chủ mới
Ngó sen gẫy đứt vướng tơ dai
Trông về đất cũ lòng ngao ngán
Mây tháng Tư đen phủ xứ này.

XUÂN TỨ

Ngũ thủ độc vận


Trần Nhất Lang


Bài 1


Xuân sắp về đây tựa giấc mơ
Ngồi bên cửa sổ đếm mưa tơ
Ngựa nghe gió Bấc lòng man mác
Chim nhớ cành Nam dạ thẫn thờ. (*)
Trầm mặc Đường Thi thơm nét chữ
Thanh tao Hồn Việt đẹp lời thơ
Áo lam, tiếng mõ vui kinh kệ
Để lại sau lưng một cuộc cờ.


(*) Theo điển “Ngựa Hồ, Chim Việt”.


Bài 2


Xuân sẽ về đây đẹp ước mơ
Cho đàn thiếu phụ rộn giây tơ
Chợt nghe bước nhẹ về sân Hán
Bỗng nhớ ngày xưa đến xứ Hồ. (*)
Bầu cạn xứ người say chén rượu
Túi đầy quê mẹ nặng tình thơ (**)
Vầng trăng viễn xứ buồn luân lạc
Phố Núi Lầu Tây có đợi chờ?


(*) Truyện Nàng Thái Diệm con Thái Ung cuối đời
Đông Hán (Tam Quốc), có tài thổi kèn, bị lưu lạc
vào đất Hồ 12 năm. Sau được Tào Tháo chuộc về Hán.
Nghĩa bóng, ý nói những người miền Nam (VNCH) sau
1975 bị đưa ra miền Bắc tù cải tạo nhiều năm. Và đã
được thế giới can thiệp trả tự do.

(**) Hai câu 5 & 6 viết theo lối "Đảo Trang".


BÀI 3


Xuân đến ngày mai đẹp cõi bờ
Đường xưa lối cũ rộn cung tơ
Đào hoa vụt nở tươi mầu áo
Phượng vĩ bừng khai thắm ý thơ.
Nào kẻ sang Tần thương Dịch Thủy (*)
Đâu người ở Thục nhớ Đông Ngô (**)
Xưa nay thành bại do thiên định
Thua được trên cao sắp ván cờ.


(*) Kinh Kha qua sông Dịch Thủy sang Tần hành thích
Tần Thủy Hoàng thất bại, bị giết. Nghĩa bóng ý nói có
nhiều chiến sĩ “Phục Quốc” của miền Nam đã hy sinh,
chưa hoàn thành nhiệm vụ.

(**) Theo điển Tôn Phu Nhân Quy Thục. Nghĩa bóng ý
muốn nói những người ở xa luôn nhớ quê hương.


Bài 4


Cuộc thế phân tranh mấy ván cờ
Kẻ thua người thắng chuyện huyền cơ
Sáng ra nhìn kiếng đầu xanh thắm
Chiều lại trông gương tóc bạc phơ
Đuốc Tuệ soi đường tìm bến Giác
Chầy kình thức giấc tỉnh cơn mơ
Quy Thiền mới rõ Không như Sắc
Lẩn thẩn bao năm chữ Hữu-Vô.



Bài 5


Lãng phí thời gian chuyện vẩn vơ
Con thuyền thấy bến thỏa mong chờ
Nghiêng bầu phong nguyệt tràn ly ngọc
Gom túi yên hà nhập cõi thơ.
Bên xóm tiều phu ca Tuyết Trắng (*)
Dưới sông ngư phủ đợi trăng mơ
An nhiên đứng giữa đời luân lạc
Một mái tranh nhàn vẳng tiếng tơ.


(*) Là Bạch Tuyết ca, tên một bài hát cổ.

MẤY VẦN THƠ TẾT

Ngũ thủ độc vận


Trần Nhất Lang


Bài 1


Bẩy mươi có lẻ kiếp xa nhà
Tết đến bên trời ngắm tuyết sa
Cố quốc sau lưng làn nước biếc
Tân niên trước mặt gốc mai già
Đón ngày xuân mới không nhang khói
Tiễn bước năm tàn chẳng quả hoa
Thân thế sao rơi bờ viễn xứ
Chén say yên giấc bận chi mà!



Bài 2


Đã hẹn đầu năm đến viếng nhà
Ngày xuân đi vắng chẳng chờ ta
Cũng toan nhấm nháp vài ly rượu
Rắp tính nhâm nhi mấy tách trà
Ngõ trúc im lìm không tiếng pháo
Bình mai trơ trọi vắng cành hoa
Vần thơ xướng hoạ chờ hôm khác
Khai đũa cho vui bát phở gà.



BÀI 3


Ghé thăm bạn cũ phố Bolsa
Cửa đóng, chuông im chủ vắng nhà
Chim quạ dăm đàn bay lớp lớp
Chó xù một chú sủa oa oa
Xạc xào lá úa rơi đầy ngõ
Héo hắt mai tàn rụng hết hoa
Nhang khói nhà bên người cúng quải
Đường về cuốc bộ một mình ta.



Bài 4


Trắng xoá chòm mây dẫy núi xa
Giăng giăng che lấp chốn quê nhà
Cố hương để lại tình non nước
Viễn xứ mang theo nợ quốc gia
Mấy lượt chia ly oanh ủ rũ
Bao lần hưng phế tóc phôi pha
Đưa tay bóc lịch nghe xuân tới
Đất khách mai gầy có trổ hoa?




Bài 5


Ngày tàn góc biển cách quê xa
Năm tháng lênh đênh nỗi nhớ nhà
Bến Nghé thuyền xuôi chiều nắng nhạt
Sài Gòn phố rợp bóng me già
Xứ người hờ hững xuân không pháo
Dậm khách lạnh lùng tết chẳng hoa
Cung quế muốn lên thăm chú Cuội
Mấy vần tâm sự gửi Hằng Nga.

THƠ THẨN NGÀY XUÂN

Ngũ thủ


Trần Nhất Lang


Bài 1


Sân si rồi cũng đống gò khâu
Nấm mộ đồi tây cỏ dãi dầu
Thơ phú còn dài lưu mãi mãi
Đời người ngắn ngủi có bao lâu
Đón xuân chén rượu buồn luân lạc
Vui tết chung trà xót bể dâu
Cuộc sống tha hương nơi tạm trú
Nghe giòng kim cổ tiễn đưa mau.



Bài 2


Cõi thế phù vân chẳng cửu trường
Xuân lan thu cúc mặc phong sương
Mỹ nhân tuổi lão mờ khuôn nguyệt
Hào kiệt thời qua nhạt ánh dương
Xa bến thuyền ai khơi nuối tiếc
Lạc đàn tiếng hạc gọi đau thương
Xưa nay con tạo vô tình lắm
Đêm vắng suy tư cảnh hí trường.



BÀI 3


Thăm nhau ít bữa phải chia tay
Về chốn non xanh đón tết này
Man mác sự đời bao kẻ biết
Mênh mang cuộc thế mấy ai hay?
Bạn ngồi mái lá soi kinh Phật
Người đợi mưa xuân tưới đạo cây
Quê mẹ bao năm cùng ngóng đợi
Trăng tròn lại khuyết mái hiên tây.



Bài 4


Đất mẹ chia ly cách dậm ngàn
Quê người gác trọ đón xuân sang
Tết về tuổi thọ bao niên kỷ?
Năm đến thơ sầu được mấy trang?
Nửa gánh gươm đàn đi tám hướng
Một chèo dâu bể tách đôi đàng
Muốn trôi theo nước giòng kim cổ
Như ngọn sóng triều vỗ bến giang.




Bài 5


Bao lần tết đến có vui chi
Hoa muộn tình xuân chẳng gặp thì
Kiếp sống lưu vong nhiều thấm thía
Cuộc đời tạm trú lắm sầu bi
Lòng trung đất mẹ lời cay đắng
Dạ hiếu quê cha tiếng thị phi
Chim Việt, ngựa Hồ gương vẫn đó
Ngàn năm chưa tỉnh tấm lòng si.

THUYỀN ĐI ĐI MÃI

Trần Nhất Lang

Thuyền đi đi mãi tách xa bờ
Bỏ lại khung trời những ước mơ
Khêu ngọn tương tư đèn nối bấc
Tuôn giòng hoài niệm bút đề thơ
Bừng cơn mộng điệp xuân hiu quạnh
Tỉnh giấc mơ hoa nguyệt thẫn thờ
Dẫu phiến đan tâm bền tấc dạ
Vàng kia đá nọ dễ làm ngơ?

TRÁI SẦU CHÍN NẶNG

Bài Xướng

Trần Nhất Lang


Tình đã chia ly nặng trái sầu
Bao năm ngồi đếm giọt mưa Ngâu
Người đi chốn ấy đời xanh mộng
Ta đợi nơi đây tóc trắng đầu
Hai ngả đường xưa nhìn lá úa
Dăm vần thơ lạc thức canh thâu
Khung trời kỷ niệm mờ sương khói
Kẻ chốn chân trời vẫn nhớ nhau.






Bài Họa


Còn Chăng Giấc Mơ Xưa

Khánh Ngọc 


Người đến rồi đi trĩu gánh sầu
Ta ngồi đếm lá mấy mùa ngâu
Lối xưa ảo ảnh mờ mây khói
Bóng cũ hư không bạc mái đầu
Luyến tiếc chuỗi ngày thơ chốn cũ
Nhớ nhung năm tháng mộng đêm thâu
Biệt ly đôi ngã khơi hoài niệm
Trong giấc mơ nào gặp lại nhau
.